Trong hơn 7 năm sống ở Mỹ, tôi đã xin việc làm rất nhiều lần, từ công việc bán thời gian đến toàn thời gian, từ khi là cô bé du học sinh chân ướt chân ráo từ Việt Nam sang đến khi là một người phụ nữ trưởng thành, công dân Mỹ. Mỗi lần xin việc làm, dù thành công hay thất bại, đều để lại cho tôi nhiều kỷ niệm khó quên.
Bài viết này ghi lại câu chuyện ba lần tôi xin việc thành công tại Mỹ và những bài học tôi rút ra từ những trải nghiệm này.
Hy vọng bài viết truyền cảm hứng cho những ai đang loay hoay trên chặng đường tìm việc hoặc còn bất an khi nghĩ về hành trình phía trước của mình. Tin tôi đi, tôi cũng đã từng trải qua giai đoạn đó (rất, rất nhiều lần nữa là đằng khác!)
Khi công việc đồng nghĩa với học bổng toàn phần
Lần đầu tiên tôi chính thức xin việc làm tại Mỹ là tháng 2/2014, khi ấy tôi mới sang Mỹ được 8 tháng và đang là du học sinh bậc Thạc sĩ tại UPenn (University of Pennsylvania).
Một điều ít ai biết là khi ở Việt Nam, tôi đã nộp đơn xin học thẳng từ bậc Đại học lên Tiến sĩ và được nhận vào làm nghiên cứu sinh ở Penn State (The Pennsylvania State University). Tuy nhiên, năm đó, vì nguồn học bổng ít ỏi, tôi quyết định đi học Thạc sĩ ở UPenn trước vì mức học bổng cao hơn và thời gian học ngắn hơn. Tôi bảo lưu kết quả ở Penn State với hy vọng là sau khi sang Mỹ tôi sẽ có cơ hội tốt hơn để giành “học bổng toàn phần” Tiến sĩ.
Sở dĩ “học bổng toàn phần” trong ngoặc kép là bởi vì ở bậc Tiến sĩ, bạn cần phải cạnh tranh để có một vị trí công việc trợ lý (graduate assistantship) như hỗ trợ giáo sư giảng dạy, nghiên cứu, hành chính… để đổi lấy tiền học phí, bảo hiểm sức khoẻ và trợ cấp hàng tháng (đọc thêm tại đây). Vì vậy, có việc làm đồng nghĩa với có học bổng toàn phần.
Tháng 2/2014, tôi nhận được thư mời từ Khoa Giáo dục ở Penn State đến dự sự kiện dành cho tân sinh viên. Trong chuỗi sự kiện, tân sinh viên sẽ có dịp gặp trực tiếp các giáo sư trong chương trình. Tôi biết đây chính là cơ hội để tiếp cận giáo sư và gần như dự buổi “phỏng vấn” xin việc thực sự. Nhưng tôi kiên quyết không đi.
Khi ấy, tôi gặp rất nhiều vấn đề về tâm lý, chủ yếu là thiếu tự tin vào bản thân, stress, trầm cảm nhẹ do thay đổi môi trường sống, áp lực học tập và nhiều vấn đề cá nhân khác. Tôi tự thuyết phục bản thân rằng: “Mình không cần phải đi tới Penn State, có đi cũng không nhận được công việc và chỉ làm xấu hổ bản thân trước mọi người…” rồi viện đủ mọi lý do từ đường xá xa xôi đến phải xin nghỉ một buổi học… để không đi. Tôi thậm chí còn không mở miệng kể cho ai về lời mời từ Penn State, trừ cô bác sĩ tâm lý của mình khi đó.
Khi bác sĩ tâm lý nghe một tràng các “lý do, lý chấu” của tôi để không đi tới Penn State, cô ấy cười lớn và nói: “Tại sao lại không đi? Bạn chẳng có gì để mất cả! Bạn chưa có học bổng, chưa có công việc, chưa biết tương lai phía trước thế nào, bạn có gì để mất mà lại ngại ngần không đi! Hơn nữa, có thể bạn chỉ gặp những vị giáo sư đó một lần trong đời. Người ta không cho bạn công việc thì thôi, bye-bye, có gì đâu mà phải xấu hổ và ngại ngùng!”
Ừ nhỉ! Tại sao tôi lại không nghĩ như thế? Đầu óc u ám, tiêu cực, thiếu tự tin đã khiến tôi tự huyễn hoặc bản thân, chùn bước trước cánh cửa tương lai của mình. Nhờ có lời động viên của cô bác sĩ, tôi quyết định lên chuyến xe buýt sớm nhất, chạy hơn 4 tiếng qua đêm để tới Penn State.
Và có lẽ vì mang trong mình tư tưởng “chẳng có gì để mất”, tôi gần như biến thành một người khác hẳn. Tự tin hơn, thẳng thắn hơn, ngẩng cao đầu hơn khi tiếp xúc với mọi người trong sự kiện. Vì vậy, khi đến nơi, mặc dù biết tất cả những tân sinh viên được nhận vào chương trình Tiến sĩ—đa phần là người Mỹ, có nhiều kinh nghiệm trong ngành Giáo dục —đều đang cạnh tranh nhằm vào vị trí việc làm kiêm học bổng toàn phần, tôi cũng không sợ hãi. Tôi cứ nghĩ tới lời cô bác sĩ, “một khi không có gì để mất thì mình không có gì để sợ cả” và tự tin đi hết buổi “phỏng vấn” với giáo sư này đến giáo sư khác.
Cuối cùng cũng đến buổi gặp với người quan trọng nhất: giáo sư chủ nhiệm chương trình. Thầy nói chuyện qua với tôi, đọc hồ sơ của tôi và nói: “Hồ sơ của em rất tốt, kinh nghiệm và kỹ năng của em cũng rất tốt. Tôi nghĩ em sẽ là một nghiên cứu sinh tuyệt vời…” Thầy bắt đầu nói những lời có cánh ngợi khen và động viên tôi. Nhưng tôi dường như không thể nào ngồi nghe lâu hơn được nữa, tôi cảm thấy đến lúc mình phải nói thẳng suy nghĩ thật của mình cho thầy.
Hít một hơi thật sâu, tôi gần như cắt lời thầy: “Thầy ạ, em biết em sẽ là một nghiên cứu sinh tốt. Tuy nhiên, em phải nói thật với thầy là nếu em không có công việc trợ lý với suất học bổng toàn phần, em không thể theo học ở chương trình của thầy được. Thật vậy ạ! Em không thể nào có điều kiện chi trả học phí và sinh hoạt phí cho 5 năm học Tiến sĩ được. Không có công việc đồng nghĩa với em sẽ không theo học ở chương trình này”
Thầy thoáng ngạc nhiên một chút rồi mỉm cười chỉ ra hướng ngoài cửa: “Tất cả những tân sinh viên đang chờ tôi ở ngoài kia, họ đều có chung nguyện vọng này nhưng vị trí công việc không đủ cho tất cả mọi người”. Thầy nhìn sâu vào tôi và nói: “Nhưng em là một ứng viên xuất sắc, tôi sẽ để tâm đến trường hợp này”
Tôi chào thầy ra về, cảm thấy tự hào vì mình đã thể hiện hết mình, nỗ lực hết sức trong buổi phỏng vấn. Quan trọng hơn cả, tôi đã nói ra hết những điều mình muốn nói—một điều mà không phải lúc nào một đứa hướng nội, rụt rè như tôi cũng dám làm.
Khoảng hai tuần sau, tôi nhận được tin mình đã có công vệc trợ lý nghiên cứu tại Penn State!!!! Đó là một trong những ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời tôi—không hẳn là vì tôi sắp thực hiện được ước mơ học Tiến sĩ của mình, mà là vì tôi đã trút được gánh nặng ngàn cân về tương lai trước mắt. Ít nhất, tôi biết được mình sẽ đi đâu, ở đâu trên nước Mỹ rộng lớn này trong 5 năm tới—một cảm giác mà có lẽ chỉ những người “tha phương cầu thực” mới hiểu được.
Mãi sau này khi đã học ở chương trình một thời gian, tôi mới được nghe trợ lý của giáo sư chủ nhiệm chương trình kể lại là, năm đó nguồn học bổng rất ít và các vị trí trợ lý đã được ưu tiên cho những người nhiều kinh nghiệm ở Mỹ hơn tôi. Tuy nhiên, vì thầy rất ấn tượng với tôi và thấy được tiềm năng trong tôi nên thầy đã trực tiếp mang hồ sơ của tôi đến gõ cửa nhiều nơi để xin thêm nguồn học bổng, giành một vị trí công việc quý báu cho tôi. Chính thầy về sau lại trở thành giáo sư hướng dẫn luận án tốt nghiệp cho tôi. Thầy đã cho tôi rất nhiều cơ hội tuyệt vời mà không lời cảm ơn nào nào có thể đủ được.
Vậy là tôi đã có công việc đầu tiên tại Mỹ!
Bài học trong lần xin việc này là: Nếu chỉ có 1% cơ hội, nếu cảm thấy mình chưa chắc đã đủ điều kiện cho vị trí công việc, bạn vẫn nên mạnh dạn nộp hồ sơ vì biết đâu bạn có nhiều tiềm năng hơn bạn nghĩ. Thẳng thắn nói cho nhà tuyển dụng biết công việc này quan trọng với bạn tới mức nào—không van xin, nài nỉ mà hãy ngẩng cao đầu, tập trung vào điểm mạnh của mình và sự quyết tâm giành lấy vị trí cho mình.
Khi công việc là bước đệm thiết yếu
Tôi xin việc làm lần thứ hai vào tháng 5/2014, khi ấy tôi đang chuẩn bị bước vào kỳ hè —kỳ học cuối cùng của tôi ở UPenn.
Ở thời điểm đó, tôi rất muốn tìm một công việc bán thời gian gần với ngành học giáo dục. Thứ nhất, tôi muốn tích lũy thêm kinh nghiệm làm việc ở môi trường giáo dục Mỹ để chuẩn bị cho chương trình Tiến sĩ và vị trí trợ lý nghiên cứu sắp tới tại Penn State. Thứ hai, tôi muốn kiếm thêm một khoản đủ để trang trải tiền thuê nhà tháng đầu, chi phí di chuyển và mua đồ cho căn hộ ở trường mới. Khi nhận được thông báo có công việc ở Penn State, tôi đã quyết định sẽ hoàn toàn độc lập tài chính, tự lo lấy cuộc sống của mình ở Mỹ nhằm giảm bớt gánh nặng cho gia đình. Vì vậy, có một công việc làm ngắn hạn rất quan trọng với tôi khi ấy.
Thật tình cờ, đúng dịp đó, một giáo sư ở UPenn đăng tin tuyển trợ lý nghiên cứu biết cả tiếng Việt và tiếng Anh để giúp thầy thu thập dữ liệu trong một dự án về thanh thiếu niên người Việt nhập cư tại Mỹ. Đọc thông tin tuyển dụng, tôi cứ ngỡ ai đó viết riêng cho tôi: “cần tuyển một người nói tiếng Việt thành thạo”, “quan tâm đến giáo dục dành cho người nhập cư”, “có khả năng phỏng vấn”, “có kỹ năng làm việc độc lập cao”… Và đó không chỉ là suy nghĩ của riêng tôi vì ngay khi tin tuyển dụng đăng lên, rất nhiều bạn bè của tôi ở UPenn đã chuyển lại thông tin, nhắn: “nộp đi cậu ơi”, “chắc chắn cậu sẽ được”, “cố lên cậu ơi”… Điều này làm cho tôi rất xúc động và tự tin nhấn nút “apply”.
Đúng như dự đoán, tôi được chọn vào vòng phỏng vấn với giáo sư. Buổi phỏng vấn diễn ra rất suôn sẻ, tôi trả lời được tất cả các câu hỏi, khớp với mọi yêu cầu của vị trí, giáo sư cũng ấn tượng với kinh nghiệm và kỹ năng nghiên cứu của tôi. Tuy nhiên, có một vấn đề khúc mắc nảy ra trong quá trình phỏng vấn, đó chính là visa du học sinh của tôi. Khi đó, tôi vẫn còn sử dụng visa du học sinh F1—loại visa này chỉ cho phép sinh viên làm việc trong trường mình đang học (UPenn)—mà chỉ còn vài tháng nữa là tôi phải làm thủ tục chuyển hồ sơ lên Penn State. Vì vậy, cả tôi và giáo sư đều thắc mắc không biết tôi có đủ điều kiện làm việc hợp pháp đến hết dự án hay không. Bởi cả hai đều không có câu trả lời, thầy nói rằng tôi cứ ra về, sau khi thầy phỏng vấn hết một lượt các ứng viên khác, nếu tôi được cân nhắc chọn, thầy sẽ tìm hiểu thông tin này tại Văn phòng dành cho sinh viên quốc tế (Global Office) ở UPenn.
Tạm biệt thầy ra về, tôi nghĩ mình đã thể hiện rất tốt trong buổi phỏng vấn, nhưng vẫn lấn cấn không biết vấn đề visa kia sẽ giải quyết như thế nào. Sau khi về đến nhà, nằm lăn qua lăn lại, tôi vẫn nghĩ mãi về vấn đề này. Đột nhiên, “ting ting”—trong đầu tôi chợt nhận ra rằng: Tại sao mình không chủ động tìm hiểu vấn đề này để tự gỡ bỏ nút thắt? Mình đâu cần phải ngồi chờ thầy hỏi hộ mình, mình cũng có thể đến Global Office cơ mà! Nghĩ thế, tôi bật dậy và đi bộ một mạch từ nhà đến Global Office.
Nhân viên ở Global Office mới nghe qua đã hiểu rõ về trường hợp của tôi. Họ đưa cho tôi một số lựa chọn để làm việc hợp pháp tại Mỹ, như bắt đầu công việc sớm hơn để tận dụng visa, làm thêm số giờ dự kiến, làm việc từ xa… Nắm được thông tin này, ngay tại văn phòng Global Office, tôi email luôn cho giáo sư: “Thưa thầy, em rất cảm ơn thầy đã dành thời gian phỏng vấn em sáng nay. Trong buổi phỏng vấn, em biết chúng ta đều có câu hỏi về vấn đề liên quan đến visa của em. Em đã tham vấn Global Office và đây là gợi ý của họ…”
Nhận được email, giáo sư cảm ơn tôi và nói sẽ thông báo kết quả cho tôi sớm. Và khoảng 12 tiếng sau, thầy email lại nói là tôi đã được nhận việc. Yay!!!!
Một mùa hè làm việc thực nghiệm với giáo sư trong dự án thanh thiếu niên nhập cư đã thay đổi cuộc đời tôi. Tôi học được vô số điều bổ ích mà có lẽ bằng hàng chục lớp Phương pháp nghiên cứu (Research Methods) cộng lại. Những kiến thức và kinh nghiệm này giúp tôi bước vào chương trình Tiến sĩ ở Penn State đầy tự tin. Sau này, vì làm việc ăn ý với tôi, giáo sư tiếp tục mời tôi làm đồng tác giả hai bài báo khoa học sử dụng dữ liệu từ dự án mùa hè năm ấy, trong đó có một bài báo tôi là tác giả thứ nhất (Nguyen & Quinn, 2018; Quinn & Nguyen, 2017).
Bài học trong lần xin việc này là: Nếu có bất kỳ khúc mắc, câu hỏi chung nào trong quá trình tuyển dụng, chủ động tìm hiểu, gỡ nút thắt vấn đề. Đừng thụ động ngồi chờ nhà tuyển dụng đi tìm lời giải đáp, lúc đó cơ hội cũng qua mất rồi!
Khi công việc mang ý nghĩa sống còn
Lần gần nhất tôi xin việc làm là tháng 2-3/2019, khi đó tôi vẫn đang hoàn thành luận án ở Penn State và mới sinh con được hơn 3 tháng.
Sau khi sinh con, thể chất của tôi yếu đi nhiều, trí nhớ và độ tập trung cũng giảm sút và có biểu hiện trầm cảm sau sinh. Trước đây tôi nghĩ mình cứ học hết chương trình Tiến sĩ, bảo vệ luận án, lấy bằng rồi mới đi tìm một công việc trong mơ ở đâu đó xa xôi cho thoả ước mơ bay nhảy. Nhưng sau khi có con, tôi nhận ra rằng mình cần công việc ổn định càng-sớm-càng-tốt.
Sau một thời gian ở nhà chăm con, tôi nhận ra rằng, mặc dù rất yêu con và muốn chăm chút cho gia đình, tôi là mẫu người của công việc—tôi cần đi làm, cần có không gian tập trung làm việc, suy nghĩ tích cực để vượt lên trầm cảm và rối loạn lo âu. Chồng tôi là người đầu tiên nhận ra điều này, vì thế anh ấy khuyến khích tôi đi xin việc và quyết định nghỉ việc để ở nhà làm bố toàn thời gian. Chúng tôi cũng quyết định sẽ tập trung vào cơ hội việc làm ở Penn State vì với con nhỏ, sự ổn định về nơi ở và tài chính trở nên quan trọng hơn hết. Bởi vậy, có một công việc toàn thời gian ổn định khi đó có ý nghĩa sống còn, đối với cá nhân tôi và với gia đình nhỏ của tôi khi ấy.
Sau một thời gian ngắn apply tại Penn State, tôi được mời phỏng vấn cho một vài công việc, trong đó có Data Analyst—một vị trí mà trước đó tôi chưa từng nghĩ mình sẽ làm hay thậm chí có thể làm. Nhưng vì áp lực công việc ở thời điểm đó, tôi mạnh dạn nộp hồ sơ và bước vào vòng phỏng vấn.
Buổi phỏng vấn ban đầu rất trơn tru, cho đến khi hội đồng tuyển dụng hỏi tôi một câu mang tính technical (kỹ thuật): “Bạn có thể cho biết kinh nghiệm của mình với SQL (một ngôn ngữ truy vấn dữ liệu) không?” Thú thực, đó là lần đầu tiên tôi nghe đến SQL, trong quá trình làm nghiên cứu, tôi chưa từng phải truy vấn dữ liệu hệ thống mà thường chỉ làm việc với bộ dữ liệu tự xây dựng hoặc bộ dữ liệu quốc gia/quốc tế có sẵn thôi nên chưa từng sử dụng SQL. Câu hỏi này khiến tôi hơi bị ngợp một chút, nhưng bình tĩnh trở lại, tôi trả lời thẳng thắn: “Thú thật là tôi chưa từng sử dụng SQL. Nhưng tôi có kinh nghiệm sử dụng những phần mềm khác như SPSS, Stata, Atlas.ti, Nvivo, Dedoose… để phân tích dữ liệu định lượng và định tính. Nếu vị trí này cần SQL, tôi sẽ học ngay lập tức. Nếu nhìn vào CV và transcript của tôi, các vị cũng có thể thấy, tôi có khả năng học rất nhanh và đạt kết quả tốt ở nhiều lĩnh vực, trong một thời gian ngắn”
Kết thúc buổi phỏng vấn, tôi cứ đinh ninh là mình sẽ trượt. Ấy vậy mà tôi lại được nhận offer công việc (!), thậm chí còn có thể thương lượng về lương, trợ cấp, thời gian bắt đầu làm việc và cả vị trí ngồi làm việc nữa.
Sau đó, trong lần đi công tác với một đồng nghiệp từng nằm trong hội đồng tuyển dụng tôi năm ấy, cô ấy tiết lộ: Trong hơn 10 người được vào vòng phỏng vấn, đại đa số đều biết và sử dụng SQL thành thạo; nhưng hội đồng quyết định từ chối tất cả những người kia để chọn tôi vì họ thấy được tiềm năng của tôi. Và thú thực là học SQL cũng không có gì quá khó, tôi chỉ mất chừng 1 tuần tự học trên mạng cộng với thực hành hàng ngày là đã đủ để ứng dụng vào công việc của mình.
Đọc thêm về câu chuyện này và công việc Data Analyst ở đây.
Bài học trong lần xin việc này là: Nếu bạn nhận ra mình thiếu hụt kỹ năng nào đó trong quá trình tuyển dụng, hãy thẳng thắn thừa nhận. Bên cạnh đó, tập trung vào điểm mạnh của mình để bù vào kỹ năng thiếu và khẳng định sự cầu tiến, mong muốn học hỏi hoàn thiện bản thân trong tương lai của mình.
—
Bạn nghĩ gì về những bài học của tôi sau ba lần xin việc thành công tại Mỹ? Bạn có bài học gì từ những lần xin việc của mình để chia sẻ cho mọi người không? Hãy kể cho tôi dưới phần comment nhé! Ngày nào đó, khi tích lũy thêm trải nghiệm (và cả dũng khí) tôi sẽ trở lại đề tài này với bài học sau những lần xin việc thất bại ?. Mọi người đón xem nhé!
UPDATE 7/2021: Những bài học từ ba lần xin việc này, cùng với những kiến thức tích luỹ được từ những va vấp và thất bại trong suốt hành trình tìm việc tại Mỹ đã đưa tôi đến công việc trong mơ của mình: Giáo sư đại học (college professor):