Tôi ít nhắc đến ba tôi, ông bỏ tôi đi quá sớm, khi tôi vừa mới vào tuổi thiếu niên. Ký ức của tôi với ba là cả một chuỗi những chuyện vui buồn đan xen vào nhau, mà buồn nhiều hơn vui vì ba tôi khác biệt, ông không như mọi người! Ông nội tôi vốn gốc người Hà Tỉnh, vào Nam, hay chính xác hơn vào miền cát trắng biển xanh ở ngảnh Hàm Tân (giờ là Lagi) thuộc tỉnh Bình Tuy ngày xưa (nay là Bình Thuận) lập nghiệp từ rất lâu, ông bà được coi là một trong những người có công khai phá vùng đất vốn rất hoang sơ này.



Mộ ông bà, cô Nga (em ba tôi) và ba vẫn còn đó, nhưng Hàm Tân ngày xưa trong trí óc non nớt của đứa bé, đó là một làng chài ven biển, lúc nào cũng đầy cát, cát ngoài bãi, cát trong sân, cát trong nhà, cát theo từng bước chân, và ngôi mộ trên một đồi cát trắng phau nhìn ra biển, xa tít ngoài khơi là Hòn Bà, còn phía sau là núi Tà Cú, muốn đến mộ phải đi bộ một đoạn xa dọc bãi cát trắng xóa, nay đã khác xưa! Khi xưa mỗi lần được về quê nội, tôi hay đi loanh quanh khắp nơi, hay vùi chân trong cát, lát sau nóng quá, vừa chạy vừa la, hay hí hởn khi được cho nguyên con tôm hùm nướng thật to!


Giờ đây những ngôi nhà xưa, con đường làng đầy cát trắng, hàng rào đơn sơ với vài bụi hoa dại rãi rác đó đây, những người thân, rồi đồi cát xưa đều không còn, ngôi mộ giờ bị bao quanh bởi những khu du lịch tự phát, không biết từ nơi yên nghỉ, ông bà và ba có còn nghe tiếng gió thì thầm, tiếng sóng biển đập rì rào vào đá, vào bờ hằng đêm, có còn thấy hòn Bà ngoài kia không?



Lúc nhỏ tôi về quê nội vài lần với ba mẹ vào dịp Tết, ở nhà người bà con, bác Năm Chi, tôi còn nhớ đôi mắt sáng, mái tóc dài điểm bạc và giọng nói sang sảng át tiếng sóng của bác, dáng đi mạnh mẽ của dân biển và ngôi nhà gạch xưa, sơn màu xanh biển nhạt, có tủ thờ nằm giữa hai cửa, đó là lối đi xuống gian bếp đơn sơ. Gần bàn thờ hình như có tấm phản và bộ bàn ghế. Tết thời đó trên bàn thờ luôn có những hộp bánh cốm gói giấy đủ màu đỏ xanh tím, vuông vức, có bông hoa giấy ngay mí dán, nhà nào cũng có. Cách đây không lâu khi xem “Ai là triệu phú” trên VTV3 - một câu đố đặc sản vùng này là gì, tôi ngạc nhiên khi nghe món “chả lụi” xa lạ, chỉ mới được du nhập từ vùng khác, còn hộp cốm năm xưa kia không biết có còn không, gói trong cái giấy màu bị lem ố.

Tôi không gần bên nội nhiều, một phần ba tôi mất khi tôi còn quá nhỏ và sau khi ba đi, sợi dây ràng buộc với bên nội cũng lơi dần, một phần những người thân nhất của Ba cũng không còn ai. những người bác, rồi các anh chị con bác tôi đã từng gặp hay chưa gặp, tôi nhớ rất ít, tôi chỉ còn nhớ anh Sơn, dáng người cao gầy, da ngâm ngâm của dân miền biển, anh hay uống rượu…anh cũng đã mất từ lâu, rồi những con cháu khác tôi cũng không còn giữ được liên hệ với nhau, duy nhất có một người, kêu ba bằng cậu là bác sĩ Đổ Hồng Ngọc, người đến gặp Ba tôi khi ông vừa mất, người tôi tìm đến vào những ngày cuối đời của mẹ tôi. Khi má tôi còn khoẻ, năm nào bà cũng ra mộ thăm ba, có khi đi vài lần trong năm, gặp ai quen biết bà hay mời đi chung, có người vui vẻ đi, có người khéo léo từ chối.


Tôi có nói ba tôi không như mọi người, vì ông mắc cơn bệnh nữa tỉnh nữa mê dại, từ hồi rất trẻ, nữa đau vì thời cuộc, nữa đau vì những bất công, ngang trái trong đời hay nổi khổ trong gia đình mà ông đã trải - người em gái ba tôi rất thương, mất khi mang thai đứa con đầu lòng rồi tiếp sau đó là ông tôi. Tôi còn nhớ chồng cô Nga, dượng Tòng, một người gốc Chàm, vẫn thờ cô khi dượng đã có gia đình khác, chỉ sau khi dượng mất, gia đình bên đó có lên gặp ba mẹ tôi xin gửi lại hình thờ của cô Nga.
Ba tôi là bạn học chung với ông Trần Văn Khê (tôi hay gọi bác Khê), với ông Lưu Hữu Phước và vài người nữa nỗi tiếng trong cách mạng hay bên này chiến tuyến. Họ là nhóm bạn thân, chơi với nhau, sống đam mê với hoài bảo của tuổi trẻ thời đó, mỗi người có con đường riêng, những số phận khác nhau. Ba tôi còn giữ mối thân tình với bác Khê và một vài người bạn khác trong một thời gian dài sau này.


Ba tôi sau này theo nghề báo, ông làm ký giả, nhà thơ, nhà văn và nhà giáo! Không như những người bạn theo con đường cách mạng hay bác Khê theo âm nhạc, ba tôi chọn làm người không bình thường theo kiểu của riêng ông. Ông đau theo thời cuộc, hay như ai nói “khóc cười theo phận nước nổi trôi”. Mỗi lần ông đau, hay nói theo ngày xưa ông lên cơn, tất cả ai gần ông đều sợ, nhất là tôi. Tôi sợ ánh mắt của ông, ánh mắt khờ dại của một người điên quá mạnh mẽ, mỗi lần như thế cuộc sống gia đình xáo trộn, và ngay cuộc sống văn đàn thời đó ở Sài Gòn cũng thấp thỏm theo ông.
Vì khi lên cơn, ông hay tìm những văn nghệ sĩ ông quen lẫn không quen. Có người thương ông, giữ ông lại rồi tìm cách báo cho mẹ tôi, có người sợ không dám tiếp vì biết ông vào sẽ làm khó với những câu hỏi, nữa tỉnh nữa dại của ông. Còn tôi sau này mới cảm được cái cực của mẹ tôi, khi ngày theo ngày, sau lớp dạy ở trường, giữa cái trưa nắng gắt Sài Gòn, bà lại vội đón “xe lô” (loại xe khách ngày xưa, xe Citroen của Pháp, tôi nhớ mang máng xe màu đen, khá đẹp) lên thăm ba ở Dưỡng trí viện Biên Hòa, rồi lại vội về để mai còn đi dạy.



Ba tôi ra đi vào buổi sáng chủ nhật, một ngày sau khi Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc, khi mẹ tôi đi vắng, chỉ có mình tôi ở nhà. Tôi ngơ ngác kêu chị Mại, chị dâu họ, ở dưới lầu, chi ấy lại vội kêu cháu ba tôi, bác sĩ Ngọc, nổi tiếng vì vừa làm y nhi, vừa là nhà thơ, anh Ngọc lại xong buồn bã buông hai từ “C’est fini!”.
Thế là hết, hết cho một đời người với nhiều vật vã đau đớn trong thể xác, nhiều dằn vặt trong tâm trí, chấm dứt nổi đau trong gia đình, những chuỗi ngày dài nặng trĩu trong lòng mẹ tôi. Tôi từng hỏi “Má có yêu ba không?”, bà cười rồi nói chắc thương vì tội, tiếc cho một người có tài nhưng phận lại không may! Và thế mẹ tôi đã chấp nhận theo ba suốt ba mươi năm trời, lo cho ba chỉ vì tội, vì tài, cho đến ngày ba đi.

Quay lại với Hàm Tân, chỉ có biển xanh, cát trắng là không đổi, còn làng chài xưa đã biến mất, những ngôi nhà cũ sơn xanh cách nhau khu vườn, con đường làng toàn cát cũng biến mất, những hàng rào đơn sơ, những thúng đi biển đen màu hắc ín hoặc bạc trắng muối biển theo thời gian cũng không còn. Cuộc sống ở đó cũng đổi thay, mắc mỏ hơn khi một bữa cơm trưa hai món - canh chua và rau xào mực cùng bình trà đá giá gần nữa triệu bạc!

Tôi quay về lại Sài Gòn, tự nhủ làm gì cho ngôi mộ trong những năm sau nữa, để tôi lại có dịp ngâm mình trong biển Hàm Tân, rảo bước trên bãi cát vắng rộng thênh thang ít dấu chân người trong mùa dịch, đâu đó trong suy nghĩ tôi lại mong, hay sẽ vắng mãi mãi bóng khách để trả lại hình ảnh đồi cát trắng tinh khôi năm xưa cho ba tôi, cho ông bà và cô Nga. Tôi lấy bài thơ của ba viết cho mẹ khi ông biết ngày ông đi không còn xa để nhớ ngày quay lại ngảnh Hàm Tân, quê ba tôi.
Cát mịn này sẽ mơn trớn gót chân em
“Em có đến, mà kông anh đón tiêb
Em có về mà kông anh đứng đợi
Jó kơi này sẽ ve vuốt tóc dài em
Em có ngồi đây mà anh kông động đậy
Biển trời này sẽ thỏ thẻ chuiện đời anh (*)
(*) Ba tôi viết theo kiểu cải cách tiếng Việt của riêng ông.